Ông đã miêu tả những loại sai lầm mà có thể có ý nghĩa với mọi người nói chung hơn là với bản thân ông ta hay với những người dân Hy Lạp. Nếu mọi nhận định đều phải chứng minh thì sẽ không có dẫn chứng để khẳng định một vấn đề nào nữa. Bạn đừng quên rằng một từ có thể biểu thị nhiều thuật ngữ.
Nếu mối quan tâm chính của cuốn sách là kiến thức thì đó là một tác phẩm về nhận thức luận cách gọi khác của lý thuyết về kiến thức. Vậy, chúng ta sẽ học được gì từ cuốn sách này? Hy Lạp hiện tại là một quốc gia nhỏ, cuộc chiến tranh xảy ra ở đó cách đây 25 thế kỷ có thể không còn chút ảnh hưởng nào đến cuộc sống hiện tại. Thường các tác giả sẽ giúp ta nhận biết điều này.
Đó là lý do tại sao quy tắc 3 đặc biệt cần thiết như là một sự bổ sung cho quy tắc 2. Đơn vị logic mà quy tắc 7 hướng tới là lập luận - một chuỗi những nhận định, cái nọ bổ trợ cho cái kia. Tán thành mà không hiểu gì là vô nghĩa, còn phản đối mà thiếu hiểu biết là trơ tráo.
Nếu lập luận đúng đắn thì kết luận sẽ dược suy ra từ giả thuyết. Nhưng khi kể một câu chuyện, người kể có thể kể sai sự việc mà vẫn không làm hỏng và câu chuyện nếu biết bọc lót thành công bằng những chi tiết hợp lý khác. Euclid đã giúp bạn thấy dễ hiểu hơn bằng cách làm rõ những định đề ngay từ đầu.
Có thể bạn không đồng ý với quan điểm của tác giả về việc vấn đề nào là cơ bản nhưng dù sao bạn vẫn học được từ ông điều gì đó. Và nếu những điều đó đã xảy ra thì chúng cũng có thể được lặp lại hoặc bị né tránh. Bạn phải quen thuộc từng chi tiết của các tình tiết và nhân vật.
Nếu bạn đọc lời bình ngay từ đầu, chúng có thể sẽ làm lệch lạc quá trình đọc của bạn. Khi đọc kiểm soát một cuốn sách, dù thời gian cho phép ít đến đâu, bạn cũng phải trả lời được câu hỏi Sách này thuộc loại gì: tiểu thuyết, lịch sử hay khoa học?. Người ta có thể xem xét những cuốn sách khác nhau về cùng một lĩnh vực để so sánh và đưa ra nhận xét thứ tự.
Trước tiên, chúng tôi nêu ra những điều không nên làm thay cho các quy tắc có tính xây dựng. Song, lịch sử cũng như khoa học, nhất thiết một phần nào đó trong những kinh nghiệm mà nhà sử học trải qua phải mang nét đặc biệt. Luật phát tốt không phụ thuộc vào lực lượng vũ trang tốt.
Điều này giải thích tại sao quy tắc 5 của phương pháp đọc phân tích liên quan đến từ vựng và thuật ngữ, trong khi quy tắc 6 mà chúng tôi sắp đề cập lại liên quan đến câu và mệnh đề. Hai quy tắc 2 và 3 còn được dùng để phân biệt sách hay và sách dở. Aristotle là người luôn suy nghĩ rạch ròi, nhưng mức độ khó trong các tác phẩm còn tồn tại của ông khiến các học giả cho rằng chúng chính là những ghi chú cho các bài diễn thuyết, sách, hoặc là những ghi chú của chính Aristotle hay của một sinh viên nào đó ghi lại những lời dạy của thẩy mình.
Các quy tắc đều cung cấp cho những độc giả áp dụng chúng những kiến thức về cấu trúc một cuốn sách. Nhưng mâu thuẫn thường chỉ được ám chỉ chứ không được nói thẳng ra. Trong bất cứ trường hợp nào, những tiêu đề chương được liệt kê ở phía trước cũng có tác dụng khuếch đại tầm quan trọng của tiêu đề chính.
Về phương diện nào đó, văn phong của bài luận cũng giống văn phong của đoạn hội thoại. Đến đây, chúng ta đã tìm ra các phần trong sách có liên quan đến vấn đề cần nghiên cứu; tạo được một hệ thống thuật ngữ trung lập có thể áp dụng với tất cả hoặc đa số các tác giả; tạo khung và sắp xếp một loạt câu hỏi coi như sẽ được giải đáp trong các sách; xác định và sắp xếp các vấn đề nảy sinh từ các câu trả lời khác nhau. Lượng tài liệu dạng như vậy nhiều tới mức không ai có đủ thời gian đọc hết một phần những tài liệu đó.